|
|
|
|
Di chúc cũ
|
|
Di chúc mới
|
|
|
|
Kinh Thánh Việt Nam 2011
|
|
|
|
1 |
Bấy giờ Gióp trả lời: |
2 |
“Phải, tôi biết điều đó đúng, nhưng làm sao cho con người được vô tội trước mặt Thượng Đế? |
3 |
Ai muốn cãi lý với Ngài cũng được nhưng không ai đối đáp được với Ngài, ngàn lần Ngài vẫn thắng. |
4 |
Sự khôn ngoan của Ngài thật sâu sắc, quyền năng Ngài bao la; không ai chiến đấu với Ngài mà không bị tổn thương. |
5 |
Ngài dời núi đi không ai hay biết, lật nhào chúng trong cơn giận Ngài. |
6 |
Ngài lay chuyển đất ra khỏi chỗ nó, và khiến nền nó rúng động. |
7 |
Ngài truyền cho mặt trời ngưng chiếu sáng, và tắt các ánh sao. |
8 |
Chỉ một mình Ngài trải các bầu trời ra, và bước đi trên các lượn sóng biển. |
9 |
Chính Ngài đã làm ra các sao Bắc đẩu, sao Cày, sao Rua, và chòm sao Nam Tào. Ngài khiến các hành tinh băng qua nam bán cầu. |
10 |
Ngài làm nhiều điều diệu kỳ không thể hiểu nổi; và vô số các phép lạ không thể đếm được. |
11 |
Khi Ngài vượt qua, tôi không thấy Ngài; Khi Ngài đi ngang qua, tôi không nhận biết Ngài. |
12 |
Khi Ngài giật lấy, không ai cản Ngài được hay hỏi Ngài, ‘Chúa làm gì vậy?’ |
13 |
Ngài không kìm hãm cơn thịnh nộ. Thậm chí các bề tôi của quái vật Ra-háp cũng nằm sóng sượt vì khiếp sợ dưới chân Ngài. |
14 |
Cho nên làm sao tôi biện luận được với Thượng Đế, hay tìm lời lẽ tranh luận với Ngài? |
15 |
Dù cho có lý đi nữa, tôi cũng không thể trả lời Ngài; Tôi chỉ có thể kêu xin lòng nhân ái của Thượng Đế, Quan Án tôi. |
16 |
Nếu tôi kêu Ngài và Ngài trả lời, tôi vẫn không tin Ngài chịu nghe tôi. |
17 |
Ngài sẽ lấy cơn bão tố đè bẹp tôi và thêm cho tôi nhiều thương tích vô cớ. |
18 |
Ngài không cho tôi lấy hơi, nhưng bao trùm tôi bằng khốn khổ. |
19 |
Sức mạnh Ngài lớn hơn tôi; không ai có thể cáo Ngài về sự công chính. |
20 |
Dù cho tôi có lý đi nữa, miệng tôi sẽ bảo tôi sai lầm; Dù cho tôi vô tội, miệng tôi sẽ nói tôi có tội. |
21 |
Tôi vô tội nhưng tôi đâu dám nhận. Tôi chán đời sống tôi. |
22 |
Vì thế mà tôi nói, ‘Đằng nào cũng thế thôi. Thượng Đế tiêu diệt người vô tội lẫn kẻ có tội.’ |
23 |
Khi tai ương mang đến chết chóc bất ngờ, Thượng Đế sẽ cười trên đau khổ của người vô tội. |
24 |
Khi xứ rơi vào tay kẻ gian ác, thì Ngài bịt mắt các quan án, không cho họ thấy. Nếu Thượng Đế không làm điều đó thì ai làm? |
25 |
Những ngày tháng tôi qua mau hơn lực sĩ chạy đua; bay đi không thấy có niềm vui nào. |
26 |
Chúng lướt mau như thuyền lác. Chúng bổ nhào như chim ưng vồ mồi. |
27 |
Dù cho tôi nói, ‘Tôi sẽ không than van nữa; tôi sẽ đổi sắc mặt và tươi cười,’ |
28 |
Tôi vẫn gớm ghê mọi đau khổ tôi. Tôi biết Ngài cho rằng tôi có tội. |
29 |
Vì tôi đã bị xem như có tội rồi, cho nên cố gắng mà làm chi? |
30 |
Dù tay tôi rửa bằng xà bông, thân tôi tắm thật sạch sẽ, |
31 |
Ngài sẽ vẫn đẩy tôi xuống hố nhơ nhớp, thậm chí đến áo quần tôi cũng gớm ghê tôi. |
32 |
Thượng Đế không phải là con người như tôi nên tôi không thể tranh luận với Ngài. Tôi không thể đưa Ngài ra tòa. |
33 |
Ước gì có ai giảng hoà giữa chúng tôi, phân xử trường hợp chúng tôi. |
34 |
Người đó có thể cất đi hình phạt của Thượng Đế để sự kinh hoàng của Ngài không làm tôi khiếp sợ nữa. |
35 |
Lúc đó tôi sẽ nói lên mà không sợ sệt, nhưng hiện nay tôi không làm như thế được.” |
Vietnamese Bible 2011 |
© 2002, 2011 World Bible Translation Center |